Ví dụ, khi đọc một tác phẩm về kinh tế, tiêu biểu như cuốn The Wealth of Nations (Sự thịnh vượng của các quốc gia) của Adam Smith, nếu bạn cứ nhất quyết phải hiểu tất cả những gì đọc được trong mỗi trang rồi mới đọc trang tiếp theo, thì bạn sẽ không đọc lâu được. Sự phân tích đầy đủ các ý kiến bàn luận xung quanh một vấn đề sẽ cho ta biết những vấn đề chính hoặc những luồng quan điểm cơ bản đối lập nhau. Sau đây là một số cách bạn có thể dùng:
Nhưng không có giới hạn nào trong sự trưởng thành và phát triển của trí tuệ con người. Xét trên phương diện này, đây là kiểu đọc chủ động nhất. Cũng có ý kiến cho rằng đó phải là tác phẩm Confessions của Augustine và Essays (Những bài luận) của Montaigne.
Ông dùng từ pointer-reading để chỉ việc đọc các con số hay ký hiệu trên các dụng cụ khoa học, tức là sử dụng từ reading theo nghĩa hoàn toàn thông dụng chứ không phải theo nghĩa chuyên môn. Họ vừa truyền kiến thức, vừa nhấn mạnh đến việc áp dụng kiến thức vào thực tế. Các đoạn văn bạn đọc có thể chứa điểm nút - điểm then chốt có ý nghĩa then chốt để hiểu cách tiếp cận và thái độ của tác giả.
Có thể bạn sẽ thấy những gì thâu tóm được sau khi đọc lướt là đủ, và cuốn sách chỉ có ích cho bạn trong chừng mực đó chứ không mang lại thêm điều gì nữa. Ông đã miêu tả những loại sai lầm mà có thể có ý nghĩa với mọi người nói chung hơn là với bản thân ông ta hay với những người dân Hy Lạp. Nếu tác giả dùng một từ theo nghĩa này mà độc giả lại hiểu nó theo nghĩa khác, tức là hai bên hoàn toàn không có sự thống nhất về ý niệm mặc dù đã có sự chuyển giao ngôn từ.
Lúc này, nỗ lực đầu tiên của chúng ta là phải xác định các từ được dùng. Tức là, chúng ta không có nhiều cơ hội để biết được sự thật của vấn đề, biết chuyện gì thật sự đã xảy ra. Để chứng minh điều này, bạn cần chỉ ra được kiến thức mà tác giả còn thiếu và phải chứng minh được vì sao nó thích đáng, cũng như nó sẽ dẫn đến những thay đổi như thế nào trong các kết luận của tác giả.
Dù tán thành hay phản đối, bạn đều có khả năng mắc sai sót. Nhưng sức mạnh khiến ta tiếp tục hành động từ những kích thích ấy lại rất hạn chế. Đây là quy tắc quan trọng hơn cả và là bản chất của cấp độ đọc kiểm soát.
Giữa tác phẩm mô tả và tác phẩm giả tưởng còn có sự khác biệt về ngôn ngữ. Cách thứ hai ám chỉ việc đọc các tác phẩm lớn có sự trợ giúp của cuốn Syntopicon. Đây chính là những câu mà một triết gia hỏi khi muốn khám phá bản chất của sự vật và phạm vi của sự tồn tại.
Họ trình bày thẳng thắn về các quan điểm triết học chứ không đưa ra các mâu thuẫn về ý kiến hay giả thuyết như của Platon. Có thể chỉ cần xem qua cuốn sách, bạn đã nói ngay được tính chỉnh thể của nó trong đôi ba dòng. Các phần được kết hợp và lồng ghép với nhau khi trình độ thực hiện đã lên đến mức tự động hoá.
Có bốn cách xem xét từ như sau: Nó rộng hơn vì chúng tôi nghĩ rằng cốt lõi của lịch sử là sự thuật lại hay kể một câu chuyện nào đó. Việc đọc các tác phẩm triết học có những khía cạnh đặc biệt, liên quan đến sự khác nhau giữa triết học và khoa học.
Những cuốn sách thuần tuý thông báo cho bạn những điều bạn chưa biết nhưng không giúp bạn hiểu được bản chất của chúng thì tình trạng cũng như trên. Điều này cho thấy mặc dù một phụ lục rõ ràng được sắp xếp theo bảng chữ cái, nhưng các phân tích của nó lại được xếp theo chủ đề. Họ nhất quyết từ chối sử dụng dù ít hay nhiều các thuật ngữ hay khái niệm chuyên ngành trong báo chí phổ thông và các tài liệu khác.